Xạ trị tuyến vú đôi khi có thể gây ra những tác dụng phụ. Bệnh nhân có thể gặp hoặc không gặp những tác dụng phụ này. Tác dụng phụ và mức độ nghiêm trọng của chúng tùy thuọc vào từng trường hợp của bệnh nhân. Tài liệu này sẽ cung cấp những thông tin chi tiết về các tác dụng phụ có nhiều khả năng xảy ra và các biện pháp phòng chống. Thông thường, các tác dụng phụ sẽ xuất hiện vào khoảng tuần thứ 3 của đợt điều trị và có thể ảnh hưởng đến tất cả các cơ quan nằm trong vùng xạ trị. Tác dụng phụ có khuynh hướng tăng dần vào cuối đợt điều trị.
Tác dụng trên tuyến vú:
Hai đến ba tuần sau khi bắt đầu đợt điều trị, da vùng vú, vùng dưới cổ và nách sẽ trở nên đỏ. Điều này thường xảy ra ngay nếp gấp dưới vú và có khuynh hưóng chuyển thành cấp tính vào cuối quá trình điều trị. Đầu vú của bệnh nhân có thể bị ngứa, ẩm; bệnh nhân có thể có cảm giác như ngực nặng hơn, đau và tăng kích thước.
Trong quá trình điều trị, da vùng vú được xạ trị của bệnh nhân sẽ bị sậm màu, tình trạng này sẽ kéo dài thêm một thời gian sau khi hết đợt điều trị.
Khuyến cáo thiết thực:
- Nên để da trần.
- Tắm với xà phòng trung tính.
- Tránh dùng các chất khử mùi và nước hoa.
- Tránh mặc quần áo chật và quần áo bằng chất liệu tổng hợp. Nên dùng quần áo có chất liệu bằng vải coton.
- Tránh để vùng xạ trị phơi ra nắng.
- Không nên thoa bất kỳ loại thuốc nào nếu như không có ý kiến của bác sĩ xạ trị.
Tác dụng trên vùng vai và cánh tay:
Cần phải phân biệt được tác dụng phụ do xạ trị và tác dụng phụ do phẫu thuật.
Xạ trị có thể gây rụng lông vùng nách sau 3 hoặc 4 tuần điều trị (đôi khi có thể không hồi phục). Nhưng không bao giờ gây đau nhức.
Phẫu thuật nạo hạch nách có thể làm giới hạn cử động của cánh tay, có thể gây đau hay tạo ra cảm giác nặng nề.
Khuyến cáo thiết thực:
Để phòng ngừa hiện tượng phù nề do tắc mạch bạch huyết (« hiện tượng cánh tay to ») có thể xuất hiện trong trường hợp nạo hạch nách, cần lưu ý:
- Tránh mang, xách nặng và tránh lặp lại cùng một động tác phía bên tay được phẫu thuật.
- Tránh gây vết thương trên cánh tay hay bàn tay phía bên được phẫu thuật ( trường hợp bị thương, phải khử trùng ngay các vết thương này).
- Tránh lấy máu làm xét nghiệm và đo huyết áp ở cánh tay phía bên được phẫu thuật.
- Phải tập vật lý trị liệu trong trường hợp bị hạn chế cử động của cánh tay bên được phẫu thuật.
Mệt mỏi:
Mệt mỏi không có nghĩa là bệnh nặng thêm. Thường do sự lặp lại việc điều trị hàng ngày
và sự di chuyển từ nhà đến nơi điều trị. Bản thân việc điều trị không gây mệt mỏi cho bệnh nhân.
Phải tập quen dần với các hoạt động hàng ngày và không nên cố gắng vận động quá sức.
Những trở ngại trong ăn uống:
Thời gian từ ba đến bốn tuần sau khi bất đầu điều trị, bệnh nhân sẽ cảm thấy khó nuốt do thực quản bị kích thích trong quá trình xạ trị.
Không phải trường hợp điều trị nào cũng bị những tác dụng phụ như trên.
Phần lớn các hiện tượng gây ra kích thích và sung huyết sẽ mất dần trong 2 hoặc 3 tuần sau
khi chấm dứt điều trị.
Bệnh nhân cần phải thông báo ngay cho kỹ thuật viên xạ trị hoặc bác sĩ điều trị khi xuất hiện những dấu hiệu bất thường , để được xử lý kịp thời và thích hợp.
Bác sĩ sẽ theo dõi những tác dụng phụ này và sẽ đưa ra những chỉ dẫn bổ sung cho từng trường hợp.
Bệnh nhân có thể trao đổi với bác sĩ điều trị nếu có bất kỳ câu hỏi nào.